Thứ Ba, 18 tháng 8, 2009

Ngoại ơi!


AT - Ngày nhỏ Phương rất thích theo mẹ về thăm ngoại. Phương thích được đi trên con đường làng rợp bóng mát của những hàng tre, thích được chạy loanh quanh trong khu vườn rợp những tán lá của cây xoài, cây mít để chơi trò trốn tìm cùng tụi nhỏ sống gần nhà ngoại, thích được ăn món chè đậu đen ngọt lịm đầu lưỡi có lẫn hương thơm vani thoang thoảng do chính tay ngoại nấu. Ngoại nói khi nào Phương lớn lên sẽ chỉ cho Phương bí quyết nấu món chè này.

Ngày ấy, Phương là một cô bé con mới lên mười. Những lúc nhìn Phương túm tụm cùng tụi nhỏ trong xóm đọc sách, vui đùa, thể nào ngoại cũng xoa đầu Phương, mỉm cười hài lòng. Những ngày có Phương, căn nhà ngoại không còn đắm chìm trong không gian yên tĩnh mà tràn ngập tiếng cười nói rộn ràng. Lên cấp hai, Phương bận rộn với việc học hành suốt cả mùa hè. Tranh thủ những ngày rảnh hiếm hoi, Phương đạp xe về thăm ngoại. Có Phương về thăm, ngoại cười nói suốt ngày. Ngoại khen dạo này Phương cao lên trông thấy, xinh hơn, rồi lại cập rập đi lấy nồi nấu chè đậu đen để đãi cô cháu yêu của mình. Những lúc như vậy, những nếp nhăn tuổi tác hằn trên gương mặt ngoại như giãn ra.

Càng lớn lên, Phương hiểu cảm giác cô đơn, trống trải của ngoại khi sống một mình trong căn nhà rộng thênh. Mẹ thường nói với chị em Phương: "Ông ngoại con mất khi bà ngoại chỉ mới hăm sáu tuổi, lúc ấy mẹ năm tuổi, còn dì Út chỉ mới lên hai. Ngoại con đã chịu nhiều thiệt thòi, khổ cực để nuôi mẹ và dì Út khôn lớn mà không hề nghĩ đến chuyện đi bước nữa".Nhiều lần mẹ muốn đưa ngoại về sống chung để tiện chăm sóc, nhưng ngoại nói không thể rời bỏ căn nhà đã có quá nhiều kỷ niệm gắn chặt với cuộc đời ngoại.

Từ căn nhà này, ông ngoại đã ra đi vĩnh viễn, một mình ngoại gánh gồng bao khổ cực, đắng cay để nuôi mẹ và dì Út nên người. Mỗi gốc xoài, gốc mít trong khu vườn nhà ngoại đều ẩn chứa mỗi câu chuyện riêng, lưu dấu những năm tháng tuổi thơ của mẹ, của dì Út và cả thời ông ngoại còn sống.

"Tao không đi đâu hết"- ngoại tuyên bố cương quyết trước những lời năn nỉ của mẹ, của dì Út. Vì thế, hầu như có thời gian rảnh rỗi là ngay lập tức Phương về thăm ngoại. Nhiều đêm nằm bên ngoại, nghe tiếng gió lùa lao xao bên ngoài khung cửa lẫn trong tiếng ho khan của ngoại, Phương nghe xót xa trong lòng.

Nhiều năm sau này, Phương vào đại học rồi ra trường làm việc. Công việc và những cuộc vui từ một vài người bạn mới quen choán hết cả thời gian nên khu vườn nhà ngoại không còn in dấu chân Phương. Lần về thăm nhà gần đây nhất, Phương nghe em gái nói: "Lần nào em về cũng nghe ngoại nhắc đến chị Phương. Dạo này ngoại không khỏe như lúc trước, vậy mà cách đây hai ngày ngoại còn gửi người ta mua đậu đen để chờ chị về, nấu chè thết đãi chị đấy!". Phương nghe nói mà ứa nước mắt, thấy hối hận, ray rứt, thấy có lỗi với ngoại. Phương dự định sau chuyến công tác sẽ về thăm ngoại. Có ngờ đâu...

Khi mẹ gọi điện báo tin ngoại mất, Phương nghe lòng như muốn vỡ ra bởi cảm giác đau buồn xen lẫn hối hận, xót xa. Bởi tất cả đã không còn kịp để Phương sửa lỗi, để Phương nhìn ngoại lần cuối cùng. Tiếng cô em gái xót xa: "Trước khi ngoại ra đi, mặc dù rất mong được nhìn thấy chị, nhưng ngoại sợ ảnh hưởng đến công việc của chị nên ngoại dặn mọi người không được báo tin cho chị sớm hơn...". Phương đau đớn nghẹn ngào: "Ngoại ơi! Ngoại hãy tha lỗi cho sự vô tâm của con!".

tấm ván phóng dao ( Mạc can)


TẤM VÁN PHÓNG DAO Tiểu thuyết của Mạc Can Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội nhà văn 2005 Nhà xuất bản Hội nhà văn (2005) 65 Nguyễn Du - Hà Nội Tel & Fax: 8222135
Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Phan Hách
Chịu trách nhiệm bản thảo: Nguyễn Khắc Trường
Biên tập: Lê Minh Khuê
Vẽ bìa: Trần Đại Thắng
Sửa bản in: Minh Phước
Mạc Can Tấm ván phóng dao

Phần 1
Không có gì làm cho tôi sợ hơn là cơn mưa lúc nửa đêm, vì với tiếng tôi, nhìn giọt mưa rơi long lanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắc nhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua. Ai có tới một chợ quê, trong cảnh tha phương cầu thực với các gánh hát nghèo mới biết, mưa cầm chân người mua vui ở nhà, mưa làm cho sân khấu phông màn buông rũ buồn hiu. Con hát đói lạnh, không biết ngày mai sẽ ra sao, mà vốn liếng nào có gì cho cam, ngoài một giọng hát, hay một trò xiếc, trên hai bàn tay trắng. Mưa rơi lộp độp trên mái lá nhà lồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não ruột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi, bàn tay lạnh vô tình đưa lên khuôn mặt không thể nào gột sạch dấu phấn trắng, chì đen, son đỏ. Đôi mắt sâu thăm thẳm lấy đêm làm ngày, trong mưa, từ cõi nào vẳng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca của kiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng không khác gì cuộc đời những người hát rong! Tôi chợt thức dậy ngu ngơ, phải một lúc mới nhớ mình đang ở đâu, tôi đang ngồi trên cái giường của tôi, một tấm ván đầy vết dao, những vết thương không bao giờ lành, đau đớn, ẩm ướt. Ngoài kia, một khoảng không gian u ám, bỗng có vài ánh đèn dầu tù mù, tiếng người thì thầm, chợ quê nhóm lúc nào, người ta gọi là chợ ma, trời chưa sáng chợ đã vội tan, còn một mình tôi trơ trọi ngơ ngác, mộng du nửa thức nửa ngủ, tôi đi, mơ hồ giữa trời đêm, đứng nhìn về phía nhà lồng chợ, nơi gánh hát rong của gia đình tôi mới tới chiều nay. Cơn mưa làm cho tấm bảng quảng cáo hình nhân nhạt nhoà, loang lổ, mưa cũng làm cho tấm bảng hiệu Nghệ Tinh, tên gánh hát nghèo của cha tôi hoen úa đi, mà cũng mưa khiến cho cả nhà đói meo như vầy đây, cha mẹ tôi cứ mãi lang bang, chúng tôi không có tương lai, sống rày đây mai đó, biết khi nào có một mái nhà, được về nhà. Cuối trời một màu mây biếc, màu tím pha chút xanh lam lạnh nhạt, lúc sau ủng hồng một ngày mới, trên những chiếc lá non còn long lanh giọt nước mưa khuya, còn ngày hôm qua ư, đã chết đi rồi. Tôi rất thích những buổi sáng tinh sương, mọi vật như ngưng lại, hay là chưa bắt đầu cho những xôn xao, tâm hồn con người ta cũng chợt bâng khuâng yêu mến cuộc sống hơn, yêu người và mọi vật chung quanh hơn. Buổi sáng nào, ở đâu, nơi tôi ngang qua cũng đượm buồn, còn hơn là vậy nơi đây vắng người. Tôi chợt thấy cha tôi, tướng ông nho nhỏ thấp lùn, cái lưng tôi cũng gù gù cực nhọc như ông, ông chầm chậm bước ra khỏi nhà lồng chợ, điếu thuốc đen trên môi ông cháy đỏ lập lòe. Ông đứng trước chợ, buổi sáng hôm đó, nhìn gánh hát rong tội nghiệp của ông, có lẽ từ đầu hôm tới giờ, hay là suốt nhiều đêm dài trong cuộc đời cha tôi. Ông khó ngủ yên, cha tôi không có gì trong tay ngoài vài trò ảo thuật, và một xác gánh hát tả tơi. Ông đứng bất động một lúc khá lâu. Đó là một người cha hết lòng thương yêu vợ con, một nghệ sĩ tận tuỵ với nghề, đúng nhìn cơ nghiệp mong manh của mình, rã rời sau cơn mưa lúc nửa đêm. Ông xoay người lại và nhìn thấy con của ông, cho tới khi nào tôi xa lìa khỏi cõi đời này, tôi không bao giờ dám quên giây phút đó. Cha tôi bước trên con đường thật đắng, mờ mờ sáng. Ông tới gần tôi, tôi chợt thấy tóc ông đã nhuốm bạc, chúng tôi cùng bước đi bên nhau, từ khi tôi chào đời cho tới khi tôi lớn lên, lần đầu tiên Cha tôi ở gần tôi, vuốt tóc tôi. Ông không nói gì với tôi, điếu thuốc lá đen vẫn ở trên môi ông, cho tới khi trời rạng, hai cha con trở về nhà lồng chợ. Hơn ba chục năm sau, trong một gánh hát khác, tôi có dịp trở lại chợ Sài Đôi, một sáng tôi bước trên con đường này, khung cảnh khác xưa biết là bao, sung túc hơn, nhà lồng chợ khang trang hơn, có một nhà hát bề thế hơn, tôi nhớ Cha Má tôi bằng tất cả tấm lòng của người con, nhờ Cha con có một nghề để sống, làm vui cho nhiều người như Cha. *** Tôi sinh ra trên một dòng sông, mái nhà của gia đình tôi là mui một chiếc ghe nhỏ. Cha tôi một người hát rong, sống lưu linh lưu địa. Ông có tánh hào phóng vô lo, lại khá nóng nảy. Nói như ông nội tôi thì... nếu trong lu của Cha tôi chiều nay còn chút gạo, ngày mai hẵng tính, gạo chợ nước sông, trên bến dưới thuyền, cá mắm tôm cua vùng lục tỉnh Nam Bộ bên cạnh con người. Còn Má tôi là một người đàn bà bình dân, vui tánh, bà không biết một chữ cái, đổi lại nhiều trí tưởng tượng, bà hay kể về tôi: - Thằng này ngộ lắm, mới đẻ nó ra, chút xíu nó đã cười rồi, chắc mụ bà móc miếng nó dạy nó làm hề? Má tôi thích câu nói hài hước này, bởi mỗi lần bà nói xong, ai cũng nhìn tôi lấy làm... lạ, như tôi đây là người từ cung trăng rớt xuống. Tôi quen dần với những nụ cười chung quanh tôi, từ thời thơ ấu cho tới lúc già, tôi sống khác thường với khuôn mặt buồn hiu. Và tôi cũng quen đi với nhiều ngộ nhận, vô cùng bất tiện khi quan hệ với cuộc sống, thói thường vốn vô tâm. Tôi trộm nghĩ: Đầu tiên, sau khi tôi là một phôi thai, tôi là một trái tim nhỏ, lo lắng, hồi hộp, tự thân tôi không thể nghe được nhịp đập của tôi, mà là Má tôi, lần hồi trong một thời gian khá dài tôi mới cảm biết được rằng tôi đang sống trong một thế giới nào đó, chật hẹp. Rồi... một hôm tôi lắng nghe tiếng thì thầm, tiếng người ở một thế giới khác sinh động hơn, nhưng tôi không hiểu họ nói gì, cho tới một buổi chiều, tôi thoát ra khỏi nơi đó, ngay lập tức tôi khóc, vì một vết cắt đau nhói nơi nào trong thân thể tôi, tôi liền mang một vết sẹo để đời, có thể gọi là xấu, mà tôi lại vô tội! Đúng là một nơi xôn xao, vô cùng bất tiện cho tôi, nhiều tiếng động chung quanh tôi, tôi nghe tiếng tôi khóc và tiếng cười của...

Kim Dae-jung, 83, Ex-President of S. Korea, Is Dead

SEOUL, South Korea — Kim Dae-jung, a dissident who survived a death sentence and an assassination attempt by military dictators before winning the South Korean presidency and receiving a Nobel Peace Prize, died on Tuesday, according to Yonhap news agency. He was 83.
Skip to next paragraph
Enlarge This Image
Pool Photo by Lise Aserud
Mr. Kim accepting the 2000 Nobel Peace Prize. More Photos »
Multimedia
Photographs
Kim Dae-jung, Former South Korean President, Dies
Enlarge This Image
Pool Photo by Yonhap
Kim Dae-jung, left, with North Korean leader Kim Jong-il in Pyongyang, North Korea in 2000. More Photos >
Mr. Kim had been under treatment for pneumonia since July 13, and died of “heart failure caused by internal organ dysfunctions," Park Chang-il, president of Severance Hospital, said in a news conference, according to Yonhap.
Mr. Kim is survived by his wife, Lee Hee-ho, and three sons.
As president from 1998 till 2003, he was the first opposition leader to take power in South Korea.
Once vilified by his rivals as a Communist, Mr. Kim flew to Pyongyang in 2000 to meet the North Korean leader Kim Jong-il in the first summit between the two Koreas. That meeting led to an unprecedented détente on the divided Korean Peninsula, which remains technically at war because no peace treaty was signed at the end of the Korean War in 1953.
Under Mr. Kim’s “Sunshine Policy,” the two Koreas breached their border to connect roads and railways. They built a joint industrial park. Two million South Koreans visited a North Korean mountain resort. And in a scene televised worldwide, aging Koreans separated by the war a half century ago tearfully hugged each other in temporary family reunions.
“Through his political dedication and persecution, he has come to symbolize South Korea’s democratization,” Kang Won-taek, a political scientist at Soongsil University in Seoul, said Tuesday. “He also broke long-standing taboos in South Korea — he led the liberals to the fore of South Korean politics after decades of conservative rule, and he changed North Korea’s status among South Koreans from an enemy to be vilified to someone that can co-exist with the South and can be engaged.”
But Mr. Kim “never overcame the limits” of an old-style South Korean political boss who had depended on and stoked regionalism and “privately owned political parities,” which he created and demolished for his own political gains, Mr. Kang said.
Wheelchair-bound and in and out of hospitals for treatment of pneumonia, Mr. Kim spent his last years lamenting his crumbling legacy. Tired of giving billions of dollars of aid and trade to the Communist North but getting little in return, South Koreans in 2007 abandoned Mr. Kim’s policies by electing Lee Myung-bak, a conservative leader who promised a tougher stance on Pyongyang.
Inter-Korean relations then chilled as North Korea tested nuclear weapons, first in 2006 and again in May, and as the United States, South Korea and Japan led the call for tighter sanctions on North Korea. Pyongyang retreated into belligerent isolation after years of hesitant steps toward openness, though Mr. Kim’s critics have dismissed those earlier gestures as a mere ploy by the North to wring more aid from the South.
Mr. Kim became a symbol of the South Korean struggle for democracy and the dream of reconciliation, and eventual reunification, with North Korea. When the Nobel Committee awarded him the Peace Prize in 2000, it was in recognition of his struggle as a pro-democracy campaigner as well as his vision in overcoming five decades of mistrust and hostility to engineer the inter-Korean summit.
He was often praised by his Western supporters as the “Nelson Mandela of Asia,” although Mr. Kim had a more checkered reputation among his own people.
Mr. Kim was born on Dec. 3, 1925 to a farming family at Haeuido, a small island that was part of Cholla Province in the southwest, a region scorned by successive presidents who hailed from the rival Kyongsang Province in the southeast.
After attending a vocational high school, Mr. Kim dabbled in running a shipping company and a newspaper. In 1961, on his fifth try, he was elected to the national legislature. A week later, Maj. Gen. Park Chung-hee staged a coup, the beginning of his 18-year iron-fisted rule.
A skilled rabble-rouser who spoke for political freedom and for the downtrodden, Mr. Kim quickly emerged as an opposition leader and Mr. Park’s nemesis, especially after he won 45 percent of the vote running against the incumbent dictator in his first presidential try in 1971.
His image as a persecuted dissident expanded abroad in 1973, when agents from KCIA, Mr. Park’s notorious spy agency, kidnapped him from a hotel room in Tokyo, where Mr. Kim was leading an exile movement for democracy in South Korea.